Nếu như lịch là công cụ để đo thời gian ngày, tháng năm thì đồng hồ lại là vật dụng không thể thiếu trong việc đo lường những mốc thời gian nhỏ hơn ngày. Đồng hồ bao gồm nhiều loại với nhiều yêu cầu khác nhau. Đồng hồ treo tường có yêu cầu độ chính xác tương đối thường được sử dụng phổ biến. Đồng hồ kỹ thuật được sử dụng với độ chính xác lớn. Đồng hồ đeo tay được thiết kế gọn nhẹ và thuận tiện sử dụng. Đồng hồ thường thể hiện thông tin thời gian: giờ, phút, giây. Trước đây con người đo lường thời gian bằng đèn cầy, lịch, mặt trăng, mặt trời… Từ thế kỷ 17 con người đã biết phát minh đồng hồ để đo thời gian dùng trong nông nghiệp. Đó là nguồn gốc của những chiếc đồng hồ ngày nay.
Những loại đồng hồ dùng trong kĩ thuật thường có độ chính xác rất cao và cấu tạo rất phức tạp. Trong khi đó, người ta có thể tạo ra những loại đồng hồ nhỏ để dễ dàng mang theo bên mình (gọi là đồng hồ đeo tay). Những loại đồng hồ hiện đại (từ thế kỉ 14 trở đi) thường thể hiện ba thông tin: giờ, phút, giây. Chúng ta nói về thời gian mỗi ngày. Chúng ta tính nó bằng giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ và thiên niên kỷ. Trước khi chưa có phát minh về đồng hồ, con người sử dụng nhiều thứ khác nhau để tính thời gian như: nhang, đèn cầy, lịch. Con người còn sử dụng mặt trời, cát để chia một ngày ra thành nhiều giờ. Đồng hồ như chúng ta biết đến ngày nay được phát triển bởi những người sùng đạo ở châu Âu vào thế kỷ thứ 17. Họ cần biết thời gian chính xác để gặp nhau tại nhà thờ. Người Trung Quốc phát minh ra đồng hồ nước vào thế kỷ thứ 17, nhưng người Ai Cập cổ đại đã có chúng trước đó lâu rồi. Vào những thập niên 1700, con người đã có đồng hồ treo tường và đồng hồ đeo tay, chính xác đến từng phút.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét